Việt Nam đang chứng kiến động lực ngày càng tăng trong việc tích hợp năng lượng tái tạo và loại bỏ than, phù hợp với cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Tuy nhiên, những sáng kiến này hiện đang bị cản trở bởi sự phụ thuộc của đất nước vào than sau năm 2030 và kế hoạch tăng cường sử dụng than của chính phủ. khí hóa thạch làm “nhiên liệu chuyển tiếp”. Việc nhập khẩu than và khí đốt ngày càng tăng làm tăng mối lo ngại về an ninh năng lượng, bất chấp việc theo đuổi các nguồn năng lượng sạch hơn.
Mặc dù đã có động lực đáng kể trong việc triển khai năng lượng tái tạo trong những năm gần đây, nhưng các mục tiêu triển khai năng lượng mặt trời và năng lượng gió trong kế hoạch của Chính phủ vẫn chưa đủ. Sự tăng trưởng khiêm tốn trong tham vọng giảm phát thải từ sản xuất điện không bù đắp được sự thiếu vắng các chính sách nhằm giải quyết phát thải từ các lĩnh vực khác của nền kinh tế, nơi những nỗ lực vẫn còn mờ nhạt. Đánh giá tổng thể của CAT về các mục tiêu và hành động về khí hậu của Việt Nam vẫn là “Cực kỳ thiếu hụt”.
Vào tháng 12 năm 2022, Việt Nam đã tham gia Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) để đạt được cam kết không phát thải ròng vào năm 2050, ban đầu nhận được 15,5 tỷ USD cho đến năm 2026-2028. Quan hệ đối tác phấn đấu đạt được mức phát thải cao nhất trong ngành điện là 170 MtCO2e vào năm 2030, đồng thời hướng tới mục tiêu chia sẻ 47% năng lượng tái tạo trong cùng năm.
Tuy nhiên, việc JETP tập trung vào việc loại bỏ than đã vô tình thúc đẩy khí hóa thạch, một thành phần quan trọng trong Kế hoạch phát triển điện lực mới nhất của Việt Nam. Những lo ngại cũng đang xuất hiện về cách tiếp cận tài chính dựa trên khoản vay nặng nề của quan hệ đối tác, có khả năng gây gánh nặng nợ nần cho một quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Việc thực hiện đầy đủ và đáng kể JETP có thể giúp giảm thêm 4-18% lượng phát thải so với kịch bản chính sách hiện hành vào năm 2030.

Sau khi ký kết JETP, Việt Nam đã thông qua Quy hoạch Phát triển Điện lực 8 (PDP8) được chờ đợi từ lâu vào tháng 5 năm 2023, gửi đi những tín hiệu trái chiều cho ngành điện Việt Nam. Trong khi giảm quy mô các kế hoạch mở rộng sử dụng than trước đây và nhấn mạnh việc tích hợp năng lượng tái tạo, Việt Nam đang đồng thời tăng cường sự phụ thuộc vào khí hóa thạch để sản xuất điện, mở rộng cơ sở hạ tầng khí đốt và nhập khẩu LNG. Tuy nhiên, khí đốt không phải là nhiên liệu chuyển tiếp – Kịch bản phát thải ròng bằng 0 mới nhất của IEA nêu rõ rằng việc sản xuất điện từ khí đốt tự nhiên phải giảm 98% trong khoảng thời gian từ năm 2022 đến năm 2050.
Việt Nam đang phải đối mặt với hạn hán nghiêm trọng do biến đổi khí hậu gây ra, với sự gián đoạn trong sản xuất thủy điện và phụ thuộc quá nhiều vào sản xuất điện đốt than, cuối cùng dẫn đến tình trạng thiếu điện trên diện rộng.
Lượng khí thải của Việt Nam dự kiến sẽ tiếp tục tăng cho đến năm 2030, trái ngược với mức cần thiết để đạt được mục tiêu nhiệt độ 1,5°C. Để đảo ngược xu hướng này, Việt Nam có thể:
- Đẩy nhanh việc loại bỏ dần năng lượng than bằng cách xây dựng kế hoạch ngừng hoạt động hiệu quả của các nhà máy điện than hiện có với tham vọng lớn hơn kế hoạch trong JETP và ban hành các quy định chi tiết hơn về việc chuyển đổi lại đội tàu hiện có.
- Tránh dựa vào khí đốt như một “nhiên liệu chuyển tiếp” để tăng cường an ninh năng lượng, khả năng chi trả và thu lợi nhuận từ nhiều lợi ích đồng thời khi loại bỏ dần nhiên liệu hóa thạch và tránh khả năng bị khóa khí thải.
- Cho phép triển khai nhanh chóng các nguồn năng lượng tái tạo thông qua đầu tư vào lưới điện. Khi được hỗ trợ bởi cơ sở hạ tầng truyền tải và phân phối điện đầy đủ, các giải pháp này đã mang lại khả năng chi trả cao hơn so với việc đầu tư vào các dự án nhiên liệu hóa thạch. Việt Nam được hưởng lợi từ tiềm năng năng lượng gió và mặt trời đáng kể.
- Giải quyết lượng phát thải từ ngành nông nghiệp và công nghiệp, chiếm lần lượt 18% và 17% lượng phát thải của Việt Nam. Việc thiếu định hướng chính sách hiện nay khiến lượng khí thải từ hai lĩnh vực này không được kiểm soát.
Bất chấp những hạn chế này, những phát triển mới nhất bao gồm một số phát triển tích cực:
- Việc sản xuất điện than hiện có mốc thời gian ngừng hoạt động là năm 2050, mặc dù thiếu thông tin chi tiết cụ thể. Mốc thời gian này hoàn thành cam kết của Việt Nam được đưa ra tại COP26, nơi Việt Nam cam kết loại bỏ dần việc sản xuất điện đốt than không suy giảm và ngừng xây dựng các nhà máy than mới.
- Danh mục các dự án than đã bị thu hẹp đáng kể, làm giảm nguy cơ bị khóa nhiên liệu hóa thạch.
- JETP và việc đưa nó vào kế hoạch phát triển năng lượng của chính phủ có thể đóng vai trò là chất xúc tác cho việc triển khai các nguồn năng lượng tái tạo bằng cách hướng các khoản đầu tư vào quá trình chuyển đổi năng lượng.
Theo https://climateactiontracker.org/