Thứ Hai, Tháng 8 18, 2025

Top 5 This Week

Related Posts

Tình bạn thận trọng của Việt Nam với Hoa Kỳ lại cho thấy dấu hiệu căng thẳng, 50 năm sau khi chiến tranh kết thúc

Khi các nhà lãnh đạo thế giới theo dõi Việt Nam ăn mừng thống nhất đất nước, số lượng người tham dự ít ỏi của Washington không hề bị bỏ qua.

Đó là bữa tiệc lớn nhất mà Sài Gòn từng chứng kiến ​​- một lễ kỷ niệm lớn đánh dấu 50 năm thống nhất đất nước, và là sự phô trương về sự trỗi dậy của Việt Nam như một cường quốc kinh tế và ngoại giao đang lên ở Châu Á.

Vào thứ Tư, khoảng 15.000 quân nhân, cảnh sát và dân phòng đã diễu hành qua nơi hiện được gọi là Thành phố Hồ Chí Minh, được hàng trăm nghìn người dân đứng dọc các con phố reo hò. Hàng triệu người khác đã theo dõi cuộc diễu hành trực tiếp trên truyền hình nhà nước và phương tiện truyền thông xã hội.

Các chức sắc từ khắp nơi trên thế giới đã tham dự. Nhưng đáng chú ý là sự vắng mặt của một phái đoàn cấp cao từ Hoa Kỳ – một sự thiếu sót kỳ lạ khi xét đến những nỗ lực lâu dài của Washington nhằm củng cố mối quan hệ với Hà Nội trong bối cảnh căng thẳng gia tăng với Bắc Kinh.

Chỉ có Tổng lãnh sự Hoa Kỳ Susan Burns chính thức đại diện cho đất nước tại sự kiện này, sau khi có thông tin nới lỏng các hạn chế trước đó đối với sự tham dự của các quan chức cấp cao vào phút chót.

Sự vắng mặt của người Mỹ diễn ra vào thời điểm nhạy cảm trong quan hệ song phương – với việc Washington đình chỉ các chương trình viện trợ thời chiến tranh Việt Nam, đe dọa áp dụng mức thuế mới toàn diện đối với hàng hóa Việt Nam và chỉ vài tuần sau chuyến thăm cấp cao tới Hà Nội của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.

Cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam Chuck Searcy đã dành ba thập kỷ qua để điều hành các chương trình viện trợ trong nước. Ảnh: Huw Watkin

“Thật điên rồ. Có thể đạt được điều gì từ cách đối xử của chính quyền hiện tại với Việt Nam, ngoài việc làm tổn hại đến thiện chí đã được xây dựng trong nhiều năm?”, Chuck Searcy, một cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam đã dành ba thập kỷ qua để điều hành các chương trình viện trợ tại quốc gia này, cho biết. “Người Việt Nam có lẽ sẽ không nói bất cứ điều gì một cách công khai, nhưng tôi chắc chắn họ cảm thấy bị xúc phạm.”

Một quá khứ chia cắt

Chiến tranh Việt Nam – hay còn gọi là “chiến tranh Mỹ”, theo cách gọi tại địa phương – bắt nguồn từ địa chính trị Chiến tranh Lạnh và sự chia rẽ thời kỳ thuộc địa. Hiệp định Geneva năm 1954 tạm thời chia cắt đất nước, nhưng các cuộc bầu cử nhằm thống nhất đất nước đã không bao giờ diễn ra. Thay vào đó, nó đã trở thành một trong những cuộc xung đột ủy nhiệm chết chóc nhất của thế kỷ 20, với hàng triệu sinh mạng đã mất trước khi Sài Gòn sụp đổ vào năm 1975.

“Sau nhiều năm chiến tranh, kết thúc đã đến nhanh chóng”, Carlyle Thayer, một chuyên gia người Úc gốc Mỹ về Việt Nam, từng làm nhân viên cứu trợ tại Nam Việt Nam từ năm 1967 đến năm 1968, cho biết. “Nó bắt đầu bằng một cuộc tấn công vào thành phố Ban Mê Thuột ở Tây Nguyên vào tháng 3 năm 1975, và chỉ trong vòng 55 ngày, quân đội miền Nam đã tan rã”.

Sự sụp đổ của Sài Gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã mang lại hòa bình chính thức và thống nhất – nhưng cũng mở ra một kỷ nguyên khó khăn mới cho nhiều người ở Nam Việt Nam.

Giới lãnh đạo cộng sản nhanh chóng củng cố quyền lực, thanh trừng không chỉ quân đội miền Nam đã bại trận mà còn cả những đồng minh cũ của Việt Cộng. Hàng trăm nghìn người đã bị đưa đến các trại “cải tạo”, trong khi một cuộc di cư hàng loạt bằng đường biển diễn ra sau đó.

Tình hình hỗn loạn sau chiến tranh của Việt Nam tiếp tục kéo dài đến năm 1979, khi họ lật đổ Khmer Đỏ khỏi Campuchia – gây ra một cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu với Trung Quốc và một cuộc chiếm đóng kéo dài hàng thập kỷ được gọi là “Việt Nam của Việt Nam”.
“Lúc đầu, chúng tôi nghĩ rằng tạ ơn Chúa vì chiến tranh đã kết thúc”, Carl Robinson, một cựu phóng viên của Associated Press đã di tản khỏi Sài Gòn bằng trực thăng cùng vợ khi thành phố sụp đổ, cho biết. “Nhưng đã có rất nhiều sự chỉ trích. Ngay cả bố vợ tôi, một người trung lập chống chính phủ, cũng đã bị đưa vào ‘trại cải tạo’. Về cơ bản, miền Bắc đã làm nhục miền Nam và tước đoạt của cải của miền Nam”.

Cựu nhà báo của Associated Press Carl Robinson. Ảnh: Huw Watkin

Từ đổ nát đến hòa giải

Trong những năm sau chiến tranh, Washington đã từ chối công nhận chính quyền cộng sản mới. Một lệnh cấm vận thương mại đã được áp đặt, quan hệ ngoại giao bị đóng băng và liên lạc bị giới hạn trong các nỗ lực nhằm tìm kiếm hài cốt của những người lính Mỹ mất tích.

Bị cô lập về mặt ngoại giao và bị hạn chế bởi các chính sách kinh tế theo chủ nghĩa Marx-Lenin, Việt Nam đã gần như rơi vào nạn đói. Cuộc khủng hoảng đã thúc đẩy các cải cách Đổi mới năm 1986 – những thay đổi toàn diện chấm dứt chế độ nông nghiệp tập thể và kiểm soát giá cả và mở ra một nền kinh tế thị trường cởi mở hơn.

Những cải cách này đã tăng tốc sau khi Liên Xô sụp đổ vào đầu những năm 1990, khiến nhà bảo trợ Chiến tranh Lạnh của Việt Nam trở nên nghèo đói và phần lớn không tham gia. Việc mất đi sự hỗ trợ của Liên Xô đã thúc đẩy Hà Nội tìm kiếm các quan hệ đối tác quốc tế mới, bao gồm cả với Hoa Kỳ.

Trớ trêu thay, chính việc tìm kiếm hài cốt của những người lính Mỹ đã chết trong chiến tranh đã mở ra cánh cửa cho mối quan hệ sâu sắc hơn. Các mục tiêu nhân đạo chung đã giúp hình thành mối quan hệ giữa những cựu thù.

Ted Engelmann, cựu kiểm soát viên không quân tiền phương của Không quân Hoa Kỳ, người chỉ huy các cuộc không kích cho Hoa Kỳ và Nam Việt Nam vào năm 1968 và 1969, đã nhớ lại một cuộc họp năm 1994 với một phái đoàn Bắc Việt Nam tại Denver.

“Chúng tôi đến nhà hàng này và tôi nhận thấy rằng các nhà ngoại giao và vợ của họ ngồi lặng lẽ ở rìa mọi thứ. Nhưng các cựu chiến binh ở cả hai bên đều nhận ra nhau ngay lập tức là những người lính và chúng tôi bắt đầu uống ‘100 phần trăm'”, ông nói. “Chẳng mấy chốc, chúng tôi say, hát, cười, khóc. Và chúng tôi đã phát triển tình bạn lâu dài vào đêm đó giữa những người mà chỉ vài năm trước còn cố gắng giết nhau”.

Ted Engelmann, a former US Air Force forward air controller who directed air strikes for the US and South Vietnamese. Photo: Huw Watkin

Tinh thần hòa giải đó vẫn tồn tại, với người Việt Nam và người Mỹ tận hưởng mối quan hệ nồng ấm đáng chú ý – đặc biệt là trong thế hệ trẻ. Khoảng 70 phần trăm trong số 105 triệu người Việt Nam dưới 50 tuổi, với rất ít ký ức về chiến tranh hoặc hậu quả của nó.

“Tất cả những điều đó đã là quá khứ”, doanh nhân 54 tuổi Nguyễn Bình Liên, người đã kiếm được một khoản tiền lớn từ việc bán thực phẩm bổ sung sức khỏe của Hoa Kỳ tại Việt Nam, cho biết. “Chúng tôi có một ngôi nhà ở Mỹ, cả hai đứa con của tôi đều học tại các trường đại học danh tiếng của Mỹ và giờ chúng đã là công dân Mỹ. Chúng tôi yêu nước Mỹ và người Mỹ”.

Mối quan hệ ngày càng phát triển

Quan hệ chính thức giữa hai nước không được “bình thường hóa” cho đến năm 1995 khi chính quyền của Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton chính thức mở đại sứ quán tại Hà Nội sau khi dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại của Hoa Kỳ một năm sau đó.

Khi Clinton đến thăm Việt Nam sau đó vào năm 2000, ông đã được chào đón như một ngôi sao nhạc rock bởi đám đông khổng lồ đã đến chào đón ông.

Các chính quyền Hoa Kỳ liên tiếp xây dựng dựa trên sự tiến triển đó. George W. Bush đã cấp cho Việt Nam quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn vào năm 2007 và Barack Obama đã làm sâu sắc thêm mối quan hệ với quan hệ đối tác toàn diện vào năm 2013, thúc đẩy Việt Nam tiếp cận thị trường Hoa Kỳ.

Hoa Kỳ hiện là điểm đến xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Theo Văn phòng Đại diện Thương mại Hoa Kỳ, thương mại hàng hóa song phương đạt gần 150 tỷ đô la Mỹ vào năm ngoái, trong đó xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt tổng cộng 136,6 tỷ đô la Mỹ – tăng gần 20 phần trăm so với năm 2023. Các công ty lớn của Hoa Kỳ bao gồm các nhà cung cấp của Apple, Nike, Cargill, Boeing và Intel đã đầu tư mạnh vào nền kinh tế do xuất khẩu thúc đẩy của Việt Nam.

Nhưng mối quan hệ kinh tế đó hiện đang phải đối mặt với sự hỗn loạn.

Chính quyền của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã đe dọa sẽ áp thuế lên tới 46 phần trăm đối với hàng hóa Việt Nam – nhắm vào các công ty Trung Quốc đã chuyển sản xuất sang Việt Nam để tránh thuế đối với hàng hóa sản xuất tại Trung Quốc.
Không rõ mức thuế như vậy có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung của Việt Nam như thế nào. Xuất khẩu sang Hoa Kỳ chiếm khoảng 30 phần trăm tổng thu nhập xuất khẩu của Việt Nam.

Động thái này cũng có nguy cơ làm mất đi những thành quả ngoại giao của các chính quyền trước. Vào tháng 9 năm 2023, khi đó là Tổng thống Joe Biden đã trở thành nhà lãnh đạo Hoa Kỳ thứ tư trong hai thập kỷ có chuyến thăm cấp nhà nước tới Việt Nam, nâng cấp quan hệ với Chủ tịch nước Việt Nam Võ Văn Thưởng lên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện – cấp ngoại giao cao nhất của Hà Nội – trong bối cảnh lo ngại ngày càng tăng về sự quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông.

Bị kẹt ở giữa

Báo cáo Khảo sát tình hình Đông Nam Á 2025 của Viện ISEAS – Yusof Ishak phát hiện ra rằng hơn 75 phần trăm người Việt Nam lo ngại về hành vi hung hăng của Trung Quốc trên tuyến đường thủy đang tranh chấp, trong khi một số lượng tương tự lo ngại khu vực này có nguy cơ trở thành chiến trường cho sự cạnh tranh của các cường quốc.

Mặc dù có những nghi ngờ về cam kết của Hoa Kỳ đối với chủ nghĩa đa phương, cuộc thăm dò cho thấy khoảng 70 phần trăm người Việt Nam vẫn coi Hoa Kỳ là người bảo vệ chính cho các quy tắc và quản trị toàn cầu. Và gần một nửa coi Washington là bên đi đầu trong việc duy trì trật tự quốc tế dựa trên luật lệ.

Người dân xem diễu hành kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước tại Thành phố Hồ Chí Minh vào thứ Tư. Ảnh: Kyodo

“Giới lãnh đạo Việt Nam đang lo lắng, vì người Việt Nam trung bình có thái độ chống Trung Quốc một cách độc hại,” Thayer nói. “Họ tức giận về hành vi bắt nạt của Trung Quốc ở Biển Đông, và có một tình cảm chống Trung Quốc ăn sâu bén rễ đã gây ra các cuộc bạo loạn, đập phá cửa hàng và cái chết của công dân Trung Quốc.”

Sự phẫn nộ đó làm phức tạp chính sách đối ngoại. Theo Thayer, các nhà lãnh đạo Việt Nam phải đi trên dây ngoại giao – thừa nhận mối đe dọa từ Bắc Kinh trong khi cảnh giác với ý định của Hoa Kỳ, mà họ nghi ngờ có thể bao gồm cả việc thay đổi chế độ.

Do đó, Hà Nội duy trì chính sách trung lập nghiêm ngặt được ghi nhận trong tư thế phòng thủ “Bốn không” của mình: không sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; không có căn cứ quân sự nước ngoài hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để tấn công; không đứng về phía một quốc gia chống lại quốc gia khác; và không tham gia vào các liên minh quân sự.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Popular Articles